Khi lỗi thuộc về những vì sao
Phan_9
Chỉ mười giây sau, tôi có cảm giác như hai lá phổi của mình đang co lại giống như cánh hoa tàn lúc hoàng hôn. Tôi ngồi xuống băng ghế xám phía sau máy quét và cố gắng bắt nhịp thở. Tôi ho húng hắng, và thấy rất khổ sở cho đến khi đút được đầu phun ô-xy vào mũi trở lại.
Dù vậy nó vẫn đau. Nỗi đau luôn thường trực, quặn thắt bên trong như thể muốn tôi phải cảm nhận được nó. Lúc nào tôi cũng thấy giống như bị đánh thức bởi nỗi đau khi có một đối tượng nào đó ở thế giới bên ngoài bất thình lình cần tôi chú ý hay nhận xét này nọ. Mẹ lo lắng nhìn tôi, bà vừa nói gì đó. Mẹ vừa nói chuyện gì nhỉ? Rồi tôi chợt nhớ ra, bà hỏi tôi có chuyện gì không ổn sao.
“Không có gì đâu Mẹ,” tôi đáp.
“Amsterdam!” Bà hào hứng.
Tôi mỉm cười hùa theo, “Amsterdam!”
Bà đưa tay kéo tôi đứng lên khỏi băng ghế.
Chúng tôi tới của khởi hành một tiếng trước giờ lên máy bay. “Bác Lancaster, bác thật là một người cực kỳ đúng giờ,” Augustus nói khi anh ngồi xuống bên cạnh tôi trong khu vực chờ chỉ lác đác vài hành khách.
“Ừm như vậy thì bác sẽ dư dả thời gian để sắp xếp này nọ,” Mẹ đáp.
“Mẹ cũng đầu tắt mặt tối mà!” Tôi nói với bà, mặc dù tôi hiểu Mẹ ‘đầu tắt mặt tối’ chủ yếu vì phải chăm sóc cho tôi. Dĩ nhiên Mẹ cũng khá ‘đầu tắt mặt tối’ vì làm vợ của Ba — một người không có mấy khái niệm về chuyện giao dịch ngân hàng, kêu thợ sửa ống nước, nấu ăn hay chuyện khác, ngoài việc làm công ăn lương cho Công ty Bất động sản Morris. Nhưng phần lớn là vì tôi. Mục tiêu sống lớn nhất của Mẹ và của tôi lại đan chéo vào nhau một cách phức tạp.
Khi hành khách lần lượt đến và lấp kín những ghế chờ xung quanh chúng tôi, Augustus chợt nói, “Anh sẽ đi mua một chiếc burger trước khi lên máy bay. Em có muốn ăn gì không?”
“Dạ không, nhưng em đánh giá rất cao việc anh không chạy theo những quy ước xã hội về món ăn sáng.”
Anh nghiêng đầu nhìn tôi bối rối. Mẹ tôi chen vào, “Chả là Hazel vừa phát triển một đề tài nghiên cứu về ‘thân phận thấp hèn’ của món trứng đánh.”
“Thật đáng xấu hổ khi tất cả chúng ta cứ thờ ơ sống và mù quáng chấp nhận món trứng đánh về cơ bản luôn là ‘món điểm tâm’.”
“Anh muốn thảo luận sâu hơn về đề tài này,” Augustus nói. “Nhưng giờ anh sắp chết đói đây, nên anh đi ăn trước. Anh sẽ quay lại ngay.”
Hai mươi phút sau chưa thấy Augustus quay về, tôi hỏi Mẹ xem liệu có chuyện gì bất trắc không. Và Mẹ chỉ ngẩng nhìn lên trong tích tắc từ quyển tạp chí nhảm nhí đang đọc, đừa đủ lâu để nói, “Chắc thằng bé đi vào phòng vệ sinh hay gì đó thôi.”
Một nhân viên kiểm soát cửa khởi hành bước đến và thay bình ô-xy của tôi bằng chiếc do hãng hàng không cung cấp. Tôi hơi ngượng khi cô nhân viên cứ quỳ dưới chân tôi, thu hút ánh mắt hiếu kỳ của các hành khách xung quanh. Nên tôi bấm tin nhắn cho Augustus trong khi cô nhân viên vẫn lúi húi làm tiếp.
Anh không trả lời. Mẹ dường như không quan tâm, nhưng tôi đang tưởng tượng trong đầu cơ man những bất trắc có thể phá hỏng chuyến đi Amsterdam (nào là bị bắt giam, bị thương, hay bị suy sụp tinh thần). Và mỗi phút trôi qua, tôi thấy ngực mình đau nhói nhưng không phải là căn bệnh ung thư hoành hành.
Và chỉ khi nữ nhân viên đứng phía sau quầy kiểm soát về thông báo mời những hành khách cần lên máy bay trước chuẩn bị khiến mọi người đang ngồi trong sảnh chờ đều đổ dồn ánh mắt về phía tôi, thì tôi mới thấy Augustus đang khập khiễng bước nhanh về phía chúng tôi. Một tay anh cầm chiếc túi McDonald, ba lô treo lủng lẳng trên vai.
“Anh đã ở đâu vậy?” tôi hỏi.
“Mọi người xếp hàng rồng rắn ở đó, anh xin lỗi,” anh nói và chìa tay đỡ tôi đứng dậy. Nắm tay anh, chúng tôi sóng bước bên nhau đến cổng kiểm soát để ra máy bay.
Tôi có thể cảm nhận là tất cả mọi người đều đang nhìn chúng tôi, thắc mắc không biết hai đứa tôi bị bệnh gì, có bị đe dọa mạng sống không, và Mẹ tôi thật can đảm, vân vân và vân vân. Đôi khi đây chính là chuyện tồi tệ nhất khi bị ung thư: dấu hiệu bệnh tật thể hiện rõ trên cơ thể bạn, tách biệt bạn khỏi những người khỏe mạnh khác. Chúng tôi khác biệt không lẫn vào đâu được. Và hiển nhiên nhất là khi cả ba chúng tôi đi qua hai hàng ghế trống trên máy bay, mấy cô tiếp viên gật đầu chào ra vẻ thông cảm và chỉ cho chúng tôi tới hàng ghế ở tít phía sau. Tôi ngồi ở ghế giữa, Augustus ở ghế cửa sổ và Mẹ ở cạnh lối đi ngay phía sau cánh máy bay. Bên phía Mẹ ngồi hơi lấn một chút nên tất nhiên tôi hơi xích qua phía Augustus. Anh mở túi McDonald và lấy ra một cái hamburger của anh. Vừa ăn anh vừa nói:
“Tuy nhiên, lý luận về trứng của em, là bữa ăn sáng đã nâng món trứng đánh lên như một món điểm tâm bất khả xâm phạm phải không? Em có thể ăn thịt xông khói, phô mai Cheddar ở bất cứ nơi đâu vào bất cứ lúc nào, từ món bánh mì taco chiên giòn của Mexico đến bánh sandwich điểm tâm hay phô mai nướng, nhưng riêng món trứng đánh thì thật quan trọng.”
“Lố bịch,” tôi thốt lên. Hành khách bắt đầu lên máy bay. Tôi không muốn nhìn họ, nên tôi nhìn sang chỗ khác và nhìn sang chỗ khác là nhìn vào Augustus.
“Anh chỉ đang nói là: Có lẽ món trứng đánh hơi bị cô lập, nhưng chúng cũng đặc biệt mà. Chúng có một vị trí và thời gian phân bổ riêng, giống như nhà thờ vậy.”
“Anh sai đến mức không còn có thể sai hơn được nữa. Anh đang lâm vào tình cảm ủy mị như mấy cái gối thêu lời động viên ở nhà ba mẹ anh rồi. Anh đang lập luận rằng, vật càng mong manh dễ vỡ, càng hiếm thấy thì càng đẹp, chỉ đơn giản là vì nó mong manh dễ vỡ và hiếm thấy. Nhưng đó là dối trá, và anh biết thế mà.”
“Em thật khó dỗ dành quá!”
“Dễ dỗ dành thì không còn là dỗ dành rồi. Anh từng là một bông hoa hiếm hoi và mong manh dễ vỡ, anh nhớ chứ?”
Trong một lúc anh không nói gì. “Em thật biết cách làm anh im lặng, Hazel Grace.”
“Đó là đặc quyền của em và trách nhiệm của em.”
Trước khi tôi thôi nhìn anh, anh khẽ nói, “Nghe này, anh xin lỗi. Lúc nãy anh tránh mặt ở cửa kiểm soát. Thật ra hàng người xếp hàng ở McDonald không dài như thế; anh chỉ... anh chỉ không muốn ngồi đó mà tất cả mọi người đều nhìn chúng ta.”
“Chủ yếu là nhìn em thôi,” tôi chỉnh lại. Mọi người có thể nhìn lướt qua Gus mà không bao giờ biết anh cũng bị bệnh, trong khi bệnh của tôi thể hiện ra hết bề ngoài, đó là một phần lý do tại sao tôi chỉ muốn ru rú ở nhà. “Augustus Waters, thần tượng của bao cô nàng, lại thấy xấu hổ khi ngồi bên cạnh một cô gái vác theo một bình ô-xy.”
“Không phải xấu hổ. Họ chỉ đôi khi khiến anh bực mình thôi. Và anh không muốn mình mang tâm trạng bực bội hôm nay.” Sau đó anh mò tay vào túi và lật mở gói thuốc lá.
Khoảng chín giây sau, một nữ tiếp viên tóc vàng chạy đến hàng ghế của chúng tôi và lịch sự nói: “Thưa anh, anh không được hút thuốc trên máy bay này. Hay bất kỳ máy bay nào khác.”
“Tôi không hút thuốc,” anh giải thích, điếu thuốc là bập bỗng trong miệng khi anh nói.
“Nhưng —”
“Đó là một phép ẩn dụ,” tôi giải thích dùm anh. “Anh ấy đặt thứ giết người ấy trong miệng mình mà không cho nó khả năng giết anh.”
Chị tiếp viên thoáng bối rối trong giây lát rồi nhã nhặn nói. “Vâng, phép ẩn dụ đó bị cấm trên chuyến bay ngày hôm nay ạ.” Gus gật đầu và trả điếu thuốc vào bao.
Cuối cùng máy bay cũng bắt đầu lăn bánh trên đường băng và tiếng viên phi công thông báo, Các tiếp viên chú ý, máy bay chuẩn bị cất cánh. Tiếp theo là tiếng hai động cơ phản lực gầm lên và máy bay bắt đầu tăng tốc. “Đây chính là cảm giác khi em ngồi trong xe anh lái nè,” tôi nói. Anh hơi mỉm cười, nhưng vẫn cắn chặt quai hàm. Tôi hỏi anh, “Ổn không vậy?”
Máy bay lướt trên đường băng với tốc độ mỗi lúc một nhanh hơn. Bỗng nhiên Gus nắm lấy tay vịn, mắt mở to. Tôi đặt tay lên tay anh và hỏi, “Anh ổn không?” Anh chẳng nói gì, chỉ mở to mắt nhìn chăm chăm tôi. Tội lại hỏi, “Anh sợ đi máy bay hả?”
“Lát anh sẽ cho em biết,” anh nói. Mũi của máy bay nhấc lên và chúng tôi đã ở trên không trung. Gus nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, xem mặt đất thu nhỏ dần ở bên dưới. Sau đó tôi thấy tay anh thả lỏng ra ở bên dưới tay tôi. Anh liếc qua tôi rồi nhìn ra ngoài cửa sổ. “Chúng ta đang bay,” anh tuyên bố.
“Trước đây anh chưa bao giờ đi máy bay à?”
Anh lắc đầu, “NHÌN KÌA!” anh reo lên, chỉ tay vào cửa sổ.
“Ừ, ừ, em thấy rồi. Trông giống như chúng ta đang ở trên máy bay.”
“CHẲNG CÓ GÌ TRÔNG GIỐNG NHƯ THẾ TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI,” anh nói. Sự phấn khích của anh thật đáng yêu, và tôi không thể cưỡng mình nghiêng qua hôn lên má anh.
“Này, báo cho cô biết là tôi đang ở đây đấy nhé,” Mẹ nhắc nhở. “Ngồi ngay bên cạnh cô, Mẹ của cô đấy. Là người đã nắm tay dìu cô đi khi cô chập chững những bước đầu đời đấy.”
“Chỉ là tình thương mến thương thôi mà!” Tôi nhắc lại lời Gus hôm trước, rồi quay sang hôn chụt lên má Mẹ.
“Anh không thấy tình thương mến thương xíu nào,” Gus thì thầm chỉ đủ cho tôi nghe. Khi một chàng Gus ngạc nhiên, phấn khích một cách ngây thơ, chuyển sang một anh Augustus hay có những Nghĩa Cử Cao Quý Mang Tính Ẩn Dụ thì đơn giản là tôi không thể cưỡng lại sự quyến rũ đó.
Đó là một chuyến bay ngắn quá cảnh tới Detroit. Đến nơi chúng tôi đi xe điện mini sang cửa khởi hành đi Amsterdam. Chiếc máy bay này có màn hình ti-vi ở mặt sau mỗi ghế. Nên khi chúng tôi đang bay trên những đám mây, Augustus và tôi cùng canh giờ bật xem bộ phim hài lãng mạn cùng một lúc trên màn hình riêng của mỗi đứa. Nhưng bất chấp mọi nỗ lực đồng bộ hóa quy tình nhấn nút play của chúng tôi, phim trên màn hình của anh luôn chiếu trước một vài giây. Kết quả là trước mỗi tình huống buồn cười, anh đều cười trước khi tôi bắt đầu nghe câu thoại đó.
Mẹ nảy ra một kế hoạch vĩ đại là cả ba chúng tôi sẽ ngủ trong những giờ bay cuối cùng, sao cho khi hạ cánh vào lúc tám giờ sáng, chúng tôi đã ngủ đủ giấc và hoàn toàn tỉnh táo, sẵn sàng khám phá khắp mọi ngõ ngách của thành phố. Vì vậy, sau khi bộ phim kết thúc, Mẹ, Augustus và tôi cùng uống thuốc ngủ. Mẹ nhanh chóng ngủ khò trong vòng vài giây, nhưng Augustus và tôi vẫn thức và chong mắt nhìn ra ngoài cửa sổ trong một lúc. Đó là một ngày trời trong. Và dù không thể nhìn thấy mặt trời đang lặn, hai đứa tôi vẫn thấy được ánh hoàng hôn phản chiếu qua các tầng mây.
“Chúa ơi, đẹp quá!” tôi khẽ trầm trồ.
“Những tia sáng hừng đông chiếu lấp lánh trong đôi mắt đã lòa của cô,” anh đọc một câu trong tác phẩm Nỗi đau tột cùng.
“Nhưng giờ không phải bình minh,” tôi chỉnh lại.
“Mặt trời đang mọc ở nơi nào đó,” anh điềm nhiên đáp. Một lúc sau, anh nói tiếp: “Nhận xét: Thật tuyệt nếu được du hành trong một chiếc máy bay siêu nhanh để có thể đuổi theo mặt trời mọc ở vòng quanh thế giới hen!”
“Khi đó ta có thể sống lâu hơn,” tôi nói khiến anh liếc nhìn tôi, vẻ thắc mắc. “Anh biết không, theo thuyết tương đối hay gì đó,” tôi tiếp lời khi thấy anh vẫn chưa hết bối rồi, “chúng ta chậm lão hóa hơn khi di chuyển với tốc độ nhanh hơn so với đứng yên. Nên ngay bây giờ, thời gian trôi qua chậm hơn với chúng ta so với những người trên mặt đất.”
“Quả nhiên là ‘gái’ đại học, nói chuyện cũng thông minh hẳn,” anh gật gù.
Tôi trợn mắt nhìn anh. Anh thúc đầu gối (thật) của mình vào đầu gối của tôi và tôi cũng đẩy lại. “Anh buồn ngủ hả?” Tôi hỏi.
“Đâu có đâu,” anh trả lời.
“Ừ,” tôi thở dài. “Em cũng không thấy buồn ngủ.” Thuốc ngủ và chất ngây mê đều không phát huy tác dụng với tôi như những người bình thường khác.
“Em có muốn xem một bộ phim khác không?” anh hỏi.
“Ở đây có một bộ phim do Portman đóng từ Kỷ nguyên Hazel của chỉ nè.”
“Em muốn xem phim gì mà anh chưa từng xem á.”
Cuối cùng chúng tôi cùng xem phim 300, một bộ phim chiến tranh kể về 300 chiến binh dũng mãnh Sparta trong cuộc chiến không cân sức bảo vệ thành bang Sparta khỏi sự xâm lăng của đội quân Ba Tư đông có khi đến cả tỉ người. Phim bên màn hình Augustus vẫn bắt đầu trước bên tôi. Nên sau vài phút nghe anh hô, “Chết nè!” hay “Thảm quá!” mỗi khi có ai bị giết một cách man rợn, tôi nghiêng mình và tựa đầu trên vai anh, quyết định sẽ xem trên màn hình của anh để chúng tôi thực sự cùng xem phim với nhau.
300 quy tụ một dàn diễn viên trẻ trung, hùng hậu, những chiến binh mình trần lưc lưỡng, da bóng nhẫy rất bắt mắt nên cũng dễ theo dõi. Tuy nhiên khiên giáo trong phim hình như chẳng có tác dụng gì. Thi thể lính Ba Tư và chiến binh Sparta cứ chồng chất lên nhau làm tôi không thể tìm ra lý do tại sao lính Ba Tư lại tàn độc còn chiến bình Sparta lại dũng cảm như vậy. Theo tác phẩm Nỗi đau tột cùng thì “Tính đương thời phản ánh rõ rệt trong những cuộc chiến mà không ai mất mát bất cứ thứ gì dù giá trị to hay nhỏ, trừ chính mạng sống của họ.” Và đó chính là cuộc chiến của mấy anh chàng khổng lồ đang choảng nhau kịch liệt này.
Về cuối phim, hầu như tất cả mọi người đều đã chết, thì đội quân Sparta nảy ra ý tưởng điên rồ là xếp xác chết thành một bức tường khổng lồ, ngáng giữa lính Ba Tư và con đường độc đạo dẫn vào thành bang Sparta. Tôi thấy chuyện đổ máu này không cần thiết nên tôi quay mặt đi một lúc và hỏi Augustus, “Anh nghĩ có bao nhiêu người đã chết vậy?”
Anh phẩy tay ra hiệu im lặng, “Suỵt. Suỵt. Tới khúc gay cấn nè.”
Thế là khi tấn công, trong khi bọn lính Ba Tư phải hì hục leo lên bức tường xác này thì các chiến binh người Sparta chiếm ưu thế hơn vì đã đứng trên đỉnh núi thi thể. Và khi xác chồng xác, bức tường của các chiến sĩ đã hy sinh anh dũng càng cao chất ngất và khó leo hơn. Tất cả mọi người đều vung kiếm / bắn tên loạn xạ, khiến máu đổ thành sông từ Ngọn Núi Xác Chết này...
Tôi ngồi thẳng người lên để tránh xem cảnh máu me rùng rợn mà thay vào đó, tôi nhìn Augustus đang xem phim. Anh không thể kìm kiểu cười ngốc ngếch của mình. Tôi nheo mắt nhìn lên màn hình phía bên tôi khi ngọn núi ngày càng lớn hơn vì xác của các bên tham chiến. Khi người Ba Tư cuối cùng thắng thế, tôi nhìn qua Augustus một lần nữa. Và anh dường như hết sức vui vẻ mặc dù cái thiện vừa thua cái ác. Tôi lại rúc vào vai anh, nhưng lần này nhắm tịt mắt cho đến khi trận chiến kết thúc.
Khi đến đoạn giới thiệu danh sách các diễn viên và ê-kíp đoàn làm phim, anh tháo tai nghe ra, “Xin lỗi nha, anh xem phim nhập tâm quá, cứ bị cuốn vào sự hy sinh cao thượng của người Sparta. Lúc nãy em nói gì vậy?”
“Anh nghĩ có bao nhiêu người đã chết?”
“Giống như có bao như nhân vật hư cấu đã chết trong bộ phim hư cấu này hả? Thấm tháp gì đâu,” anh đùa.
“Không, ý em là, tính từ hồi đó đến giờ thì sao?”
“Anh vô tình biết được câu trả lời nè: có bảy tỉ người đang sống và khoảng chín mươi tám tỉ người đã chết.”
“Ồ,” tôi thốt lên. Tôi cứ đinh ninh là do tốc độ tăng dân số quá nhanh nên tổng số người sống sẽ tăng cao hơn số người đã chết cộng lại chứ.
“Tỷ lệ là khoảng mười bốn người đã chết trên một người đang sống,” anh nói. Danh sách giới thiệu vẫn tiếp tục chạy trên màn hình. Phải mất một thời gian dài để nhận diện những người đã chết, tôi đoán thế. Đầu tôi vẫn tựa trên vai anh. “Anh đã nghiên cứu về số liệu này vài năm trước đây,” Augustus nói tiếp. “Lúc đó anh tự hỏi liệu tất cả mọi người đều sẽ được nhớ đến không. Giống như, nếu thế giới này được tổ chức chặt chẽ và mỗi người sống được chia một lượng người đã chết thì liệu có đủ người còn sống để nhớ hết tất cả những người đã chết không?”
“Thế có đủ không?”
“Chắc chắn đủ, bất cứ ai cũng có thể nêu tên mười bốn người chết mà. Nhưng chúng ta là những kẻ khóc mướn vô tổ chức, nên rất nhiều người chỉ nhớ đến mỗi đại thi hào Shakespeare mà không một ai buồn nhớ đến người mà ông đã viết trong bài Xonê thứ Năm Mươi Lăm.”
“Đúng vậy,” tôi thừa nhận.
Im lặng một hồi, anh hỏi tôi, “Em có muốn đọc sách hay làm gì không?” Tôi đồng ý. Thế là tôi một bài thơ dài mang tên Tiếng Hú của Allen Ginsberg sáng tác mà lớp tôi đang học, còn Gus đọc lại cuốn Nỗi đau tột cùng. Được một lát, anh lại hỏi:
“Có gì hay không?”
“Bài thơ á?”
“Ừ.”
“À, hay lắm. Mấy gã trong bài thơ này còn dùng nhiều thuốc hơn em. Còn NĐTC sao rồi?”
“Vẫn xuất sắc. Hay em đọc thơ cho anh nghe đi.”
“Đây thực sự không phải là một bài thơ thích hợp để đọc to khi quý phụ huynh đang say giấc nồng bên cạnh. Trong đó toàn mấy chuyện dâm dật và ma túy.”
“Em vừa kể hai trong nhiều thứ tiêu khiển ưa thích của anh đó. Thế thôi, vậy em đọc cho anh nghe gì khác đi?”
“Ừm, nhưng em không có gì khác để đọc.”
“Thật là chán mà. Anh đang có hứng nghe thơ thẩn. Thế em có thuộc bài thơ nào không?”
“Hãy cùng đi với nhau, em và anh,” tôi rụt rè đọc, “Khi màn đêm vây kín bầu trời mênh mông / như một bệnh nhân nằm mê man trên bàn mổ.”
“Chậm chậm thôi em.”
Tôi thấy hơi e dè, giống như lần đầu tôi kể với anh về tác phẩm Nỗi đau tột cùng vậy. “Ừm, được rồi. Được rồi. ‘Hãy cùng đi với nhau, băng qua những phố phường thưa thớt bóng người / Lắng nghe lời thì thầm của những đêm không ngủ / Giấu mình trong khách sạn rẻ tiền vui tình một đêm / hay trong nhà hàng mạt rệp vương vãi vỏ sò: / Những con đường nối tiếp nhau như một mê cung miên man buồn tẻ / Ẩn chứa trong lòng những mục đích không sáng trong / Dẫn em đến một câu hỏi bí ẩn choán cả tâm trí... / Ồ không, xin em đừng hỏi, đừng hỏi “Đó là gì?” / Mà hãy cứ đi cùng anh và tự khám phá.’”
“Anh yêu em,” anh lặng lẽ nói.
“Anh Augustus!”
“Thật đó,” anh vừa nói vừa nhìn tôi chăm chăm. Tôi có thể thấy khóe mắt anh nheo lại. “Anh yêu em và chẳng việc gì anh phải chối bỏ niềm vui được nói ra sự thật đó. Anh đang yêu em và anh biết tình yêu này vô vọng, chắc chắn sẽ bị lãng quên, rằng chúng ta đêu có số phận bi đát và rằng sẽ đến một ngày mọi nỗ lực của cả hai ta đều trở về với cát bụi. Anh cũng biết mặt trời rồi sẽ nuốt chửng hành tinh xanh của chúng ra nhưng anh vẫn yêu em.”
“Anh Augustus!” Tôi gọi tên anh lần nữa, không biết nói gì thêm. Giống như mọi cảm xúc đang dâng trào trong tôi, như thể tôi đang đắm chìm trong một niềm vui sướng lâng lâng pha chút tê tái trong lòng, nhưng tôi không thể nói nên lời. Tôi không thể nói bất cứ điều gì đáp lại anh. Tôi chỉ nhìn anh và để anh nhìn tôi cho đến khi anh khẽ gật đầu, mím chặt môi rồi quay đi, gục đầu lên thành cửa sổ.
Chương 11
Tôi nghĩ chắc anh đã thiu thiu ngủ rồi. Rốt cuộc tôi cũng chợp mắt được và chỉ bị đánh thức khi máy bay chuẩn bị hạ cánh. Miệng tôi đắng nghét làm tôi không dám nói chuyện vì sợ sẽ đầu độc cả khoang hành khách.
Tôi nhìn qua chỗ anh Augustus, anh đang suy sưa ngắm nhìn khung cảnh bên ngoài cửa sổ. Khi máy bay hạ thấp độ cao, tôi ngồi thẳng lên, rướn mình chiêm ngưỡng Hà Lan. Mảnh đất dường như bị nhấn chìm trong đại dương, những mảnh xanh hình chữ nhật nhỏ nhắn được bao bọc tứ bề bởi các kênh đào nhân tạo. Máy bay đáp xuống, trên thực tế, song song với một con kênh, giống như có hai đường băng: một dành cho chúng tôi và một dành cho loài chim nước.
Sau khi lấy hành lý và làm thủ tục thông quan xong, cả ba chúng tôi leo lên một chiếc taxi. Bác tài xế bị hói đầu và trông nhợt nhạt xanh xao nhưng nói tiếng Anh rất sõi, thậm chí còn chuẩn hơn cả tôi. Tôi kêu: “Đến Khách sạn Filosoof.”
Bác tài hỏi, “Chị và hai cháu là người Mỹ phải không?”
Mẹ đáp, “Phải, chúng tôi đến từ bang Indiana.”
“Indiana. Họ đánh cắp vùng đất từ người da đỏ và để lại tên cũ đúng không?”
“Gần như vậy,” Mẹ nói. Chiếc taxi hòa mình vào dòng xe cộ và hướng về phía đường cao tốc. Tôi thấy rất nhiều bảng tên đường màu xanh với toàn nguyên âm đôi như Oosthuizen, Haarlem. Dọc hai bên đường cao tốc là những dải đất bằng phẳng trống trải kéo dài hàng dặm, thỉnh thoảng chấm phá vài trụ sở chính của các tập đoàn lớn. Tóm lại, Hà Lan trông chẳng khác gì Indianapolis, có điều là xe cộ nhỏ hơn. “Đây là Amsterdam à?” Tôi hỏi bác tài.
“Phải và không.” ông trả lời. “Amsterdam giống như những vòng cây: càng vào đến trung tâm thì càng lâu đời cổ kính.”
Thế là khung cảnh đột ngột thay đổi: Vừa ra khỏi đường cao tốc, tôi thấy những dãy nhà đúng như trong trí tưởng tượng của mình nhấp nhô chạy dọc theo các con kênh, xe đạp nhan nhản khắp nơi và các quán cà phê đều trưng bảng quảng cáo rầm rộ là có PHÒNG HÚT THUỐC LỚN. Xe băng qua một con kênh và từ trên đỉnh đầu, tôi có thể thấy hàng chục nhà thuyền neo đậu dọc theo dòng nước. Giờ thì không còn nét giống nước Mỹ của tôi nữa. Hà Lan thoắt biến thành một bức tranh xưa cũ nhưng chân thực — mọi thứ đều bình yên lạ thường trong nắng sáng — và tôi cứ miên man suy nghĩ sẽ thật kỳ diệu dù hơi kỳ lạ khi sống ở một vùng đất mà tất cả mọi thứ gần như do bàn tay của những con người đã chết xây đắp nên.
“Có phải những ngôi nhà này rất lâu đời rồi đúng không?” Mẹ tôi hỏi.
“Có nhiều nhà dọc kênh được xây từ Thời Đại Hoàng Kim vào thế kỷ mười bảy,” bác tài đáp. “Thành phố của chúng tôi có một lịch sử lâu đời và đặc sắc dù nhiều du khách chỉ muốn tham quan Khu Đèn Đỏ.” Bác tài ngập ngừng. “Một số du khách cứ nghĩ Amsterdam là một thành phố tội lỗi, nhưng sự thật đây là thành phố của tự do. Và trong sự tự do đó, người ta thường tìm thấy tội lỗi.”
Tất cả phòng trong Khách sạn Filosoof được đặt theo tên của các triết gia: hai mẹ con tôi ở phòng mang tên Kierkegaard ngay tầng trệt còn anh Augustus ở phòng Heidegger trên lầu một. Gian phòng của chúng tôi khá nhỏ: một chiếc giường đôi kê sát tường cùng với máy thở BiPAP, máy tạo ô-xy cá nhân và hàng lô hàng lốc bình ô-xy có thể tái nạp để ngay chân giường. Qua khỏi mớ thiết bị lỉnh kỉnh là một chiếc ghế hoa hòe hoa sói cũ kỹ, bám đầy bụi, ở giữa đã võng xuống vì quá nhiều người từng ngồi qua; một chiếc bàn; và một kệ sách phía trên giường tập hợp những tác phẩm sưu tầm của Soren Kierkegaard. Chúng tôi thấy trên bàn đã đặt sẵn một giỏ mây để đầy ắp quà từ các vị thần Genie: giày gỗ, một chiếc áo thun Hà Lan màu cam, sô-cô-la, và nhiều món nho nhỏ xinh xắn khác.
Khách sạn Filosoof nằm ngay bên cạnh Vodelpark, công viên trứ danh nhất Amsterdam. Mẹ muốn đi dạo công viên ngay nhưng vì tôi quá đuối sức. Mẹ đành chụp mặt nạ thở BiPAP cho tôi. Tôi ghét phải nói chuyện khi đang đeo mặt nạ, nhưng vẫn ráng trấn an Mẹ, “Mẹ cứ ra công viên chơi đi. Khi nào thức dậy con sẽ gọi cho Mẹ ngay.”
“Được rôi,” bà âu yếm. “Ngủ ngoan nhé, con yêu.”
Nhưng khi giật mình tỉnh giấc vài giờ sau, tôi đã thấy Mẹ đang ngồi trên chiếc ghế nhỏ cổ kính trong góc phòng chăm chú đọc cuốn cẩm nang du lịch.
“Chào buổi sáng,” tôi nói.
“Thật ra giờ đã là cuối buổi chiều rồi,” bà thở dài đáp và đứng dậy, đến bên giường, đặt một chiếc bình ô-xy vào giá thép, nối dây rồi cài cho tôi, trong khi tôi tháo mặt nạ BiPAP ra và đặt đầu phun ô-xy vào mũi. Mẹ đặt chế độ hai lít rưỡi mỗi giờ, như vậy tôi sẽ có sáu giờ tự do hoạt động trước khi phải thay bình mới. Tôi đứng dậy sau khi đã được trang bị đầy đủ. “Con thấy trong người thế nào?” Bà hỏi.
“Tốt ạ. Con thấy tinh thần rất sảng khoái. Còn công viên Vondelpark thì sao ạ?”
“Mẹ dẹp kế hoạch đó rồi. Thay vào đó, Mẹ đang nghiên cứu cuốn cẩm nang du lịch.”
“Mẹ ơi, Mẹ không cần ở đây với con miết như vậy đâu?”
Bà nhún vai. “Ừ, Mẹ biết. Nhưng Mẹ muốn thế, Mẹ thích ngắm con ngủ mà. Nghe giống như mấy kẻ hay rình rập quá ha!” Bà bật cười, nhưng tôi vẫn chưa cảm thấy thoải mái tí nào.
“Con chỉ muốn Mẹ vui chơi, thăm thú chỗ này chỗ kia, Mẹ hiểu không?”
“Được rồi. Tối nay Mẹ sẽ vui chơi thỏa thích, chịu chưa? Mẹ sẽ chơi đủ mọi trò giải trí của một bà mẹ trong khi con và Augustus đi ăn tối.”
“Thế Mẹ không đi cùng à?” Tôi thắc mắc.
“Ừ, không có Mẹ. Thật ra đã có một bàn đặt trước theo tên con ở một chỗ gọi là Oranjee. Trợ lý của ông Van Houten đã thu xếp chuyện này. Chỗ đó nằm trong khu Jordaan cạnh đây. Rất lý tưởng, theo như cuốn cẩm nang giới thiệu. Có một trạm xe điện ngay góc đường. Augustus có chỉ dẫn đường đi. Con có thể ăn tối ngoài trời và ngắm nhìn tàu thuyền qua lại. Sẽ rất thú vị. Rất lãng mạn.”
“Mẹ.”
“Thì Mẹ chỉ nói thế thôi. Con nên thay quần áo đi. Mặc đầm mùa hè không tay, được không?”
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian